Tại Đông Nam Á trong vùng ảnh hưởng của văn hóa trung hoa, chúng ta có thể quan sát một sự xoay vòng của các tộc danh giữa Hán ngữ và các ngôn ngữ bản địa. Một tộc danh trong ngôn ngữ bản địa đông nam á đi vào Hán ngữ, rồi trải qua quá trình thay đổi ngữ âm ảnh hưởng lên Hán ngữ, rồi sau đó lại quay lại với ngôn ngữ bản địa ban đầu, hoặc đi vào ngôn ngữ của nhóm dân khác. Kết quả là sự tồn tại song song của các các tộc danh có cấu trúc ngữ âm khác biệt nhưng bắt ngồn từ cùng một nguồn gốc.
Chúng ta sẽ kiểm tra 4 nhóm tộc danh ở đây mà chủ yếu là Austroasiatic và Tai-Kadai. Một vài trong số chúng vẫn được sử dụng cho tới ngày nay, trong khi những tộc danh khác chỉ được biết tới qua sử sách Hán nơi chúng được ghi lại bằng fonogram. Chúng ta sẽ dùng các phục nguyên của Baxter (1992) và Pulleyblank (1991) cho các âm Hán Cổ và Hán Thượng Cổ. Các phục nguyên này sẽ nằm trong vành đai hình chữ nhật để phân biệt.
1. Nhóm
*b.rak (>
bái 白) hoặc
*p.rak (>
băi 百)
bái 白 <Hán Cổ bæk <Hán Thượng Cổ *brak [b.rak] |
băi 百 <Hán Cổ pæk <Hán Thượng Cổ *prak [p.rak] |
Các tộc danh sau bắt nguồn từ
*b.rak (>
bái 白) hoặc
*p.rak (>
băi 百):
1.1. Từ Hán-Việt '
Lạc' là từ cổ nhất dùng để chỉ cư dân ở miền bắc Việt Nam cổ đại mà theo James R. Chamberlain (2016):
Kra-Dai và lịch sử nguyên thủy của Nam Trung Hoa và Việt Nam [Kra-Dai and the Proto-History of South China and Vietnam] là Tai Trung Tâm-Tây Nam nguyên thủy.
Lạc Việt (
luòyuè 雒越) [Maspero 1918, tr.7]; còn được viết là 駱 hoặc 絡 [Maspero 1937, tr.323].
luò 雒 <Hán Cổ lak <Hán Thượng Cổ *C-rak [C.rak] |
Hán-Việt '
Lạc'
*rak là kết quả từ quá trình đơn âm hóa
*b.rak hoặc
*p.rak qua sự mất đi âm thứ nhất trong cụm phụ âm iamik đầu.
1.2.
*prɔːk "tộc danh của người Wa" và
rɔːk, tộc danh của "một tiểu nhóm Khmú". Trong các phương ngữ Waic [Diffloth 1980], các tộc danh
pəʐaək,
parauk,
pʰalok, ..v..v.. là kết quả của sự tiến hóa âm từ nguyên ngữ
*prɔːk. Sự biến âm
aː>ɔː được xác định trong ngôn ngữ Bolyu [Edmondson 1995], một ngôn ngữ Austroasiatic có liên hệ với Vietic. Sự biến âm này có lẽ đã tồn tại trong một vùng rộng lớn hơn ở nam Trung Hoa.
English/Nùng |
*Waic |
Khmu |
Viet |
Bolyu |
"fish/pja" |
kaʔ |
kaʔ |
cá |
qɔ |
"house/lừn" |
ɲaʔ |
|
nhà |
ɲɔ |
"leaf/bâư" |
hlaʔ |
ʰlaʔ |
lá |
lɔ |
"road/lò" |
kraʔ |
|
sá |
kɣɔ |
Mối liên hệ tiến hóa âm của
prɔːk và
rɔːk với
*b.rak/ *p.rak có thể được chứng minh bằng sự biến âm
aː>ɔː
1.3. Các tài liệu Trung Quốc từ TK 13 và 14 cho chúng ta biết về các cư dân gọi là
Bái yī 白衣 "y phục trắng",
Bái yí 白夷 "mọi trắng" hoặc
Băi yí 百夷 "trăm mọi trắng" [Luce 1958, tr.174-5, chú ý 11-13]. Sự tồn tại của các biến thể này gợi ý rằng các ký tự trên được dùng làm fonogram để ghi chép một tộc danh, cụ thể
*p.rak hoặc
*b.rak. Tương tự với
Bái mán 白蠻 [Luce 1961, tr.24]. Miễn là các ký tự
yī 衣 “y phục” và
yí 夷 “mọi” được đem ra xem xét, chúng có lẽ đơn giản chỉ ghi lại một từ có ý nghĩa là "người".
1.4. Trong bài diễn thuyết của mình tại ICSTLL lần thứ 41 tại London [Ferlus 2008], tôi diễn dịch
Băiyuè 百越 là "trăm công quốc". Bây giờ tôi nghĩ rằng nó nên mang nghĩa là "công quốc của người
*p.rak".
1.5. Tộc danh Baï/Bai (Báizú 白族) cũng chắc chắn bắt nguồn từ
*p.rak/ *b.rak. Người Bai trước kia được gọi là Minjia (Mínjiā 民家).
2. Nhóm
*k.ri "(tên gọi cổ của các dân tộc)
Tai-Kadai"
Dạng được xem là khởi nguyên này được bảo tồn rất tốt, hoặc hoàn toàn boặc một phần, trong một số ngôn ngữ ở Lào và Việt Nam.
- ri: dùng để chỉ người Lào trong ngôn ngữ Kenieng (Khmuic, tỉnh Houa Phan, Lao).
- raj dùng để chỉ người Tày/Tai (ở đây là Tày Mường) trong ngôn ngữ Ödu/Ơđu (Khmuic, tỉnh Nghệ An, Vietnam).
- ɣɨː (ɣɨː<*rɨː) dùng để chỉ người Tày/Tai (ở đây là Tày Đen/Thái Đen) trong ngôn ngữ Kesing Mul (Khmuic, Sơn La, Vietnam).
- kə̆riː trong cụm từ Maleng Kari mə̆lɛːŋ kə̆riː, tên tự xưng của nhóm dân Kha Phong (Vietic, Quảng Bình, Vietnam), Maleng ở đây nghĩa là “loài người, con người, người”.
Ba từ
raj,
riː và
ɣɨː rõ ràng mang nghĩa "nhóm người nói ngôn ngữ Tai/Thai". Nghĩa này chắc chắn tương tự như trong cụm từ Maleng Kari
mə̆lɛːŋ kə̆ri:, mà có thể được diễn dịch là "người Maleng (sống gần người) Lào", cùng một phương thức ngư vậy được thấy ở Maleng Brô
mə̆lèɛŋ brʊː "người Maleng (sống gần người) Bru", tên tự xưng của một nhóm dân sống gần nhóm Katuic (tỉnh Khammuon, Lao). Theo một nghĩa rộng hơn, từ
Kari cũng được dùng trong dạng tiếng Việt của nó là
Trì, để gọi người
Tia Ri, hay
Chà Ly, một nhánh địa phương của người Bru (Katuic, tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị). Để giải thích sự biến âm từ dạng ban đầu thành các từ hiện đại, chúng ta chỉ phải sử dụng một số chuyển dịch âm đơn giản mà đã được kiểm định trong Hán ngữ và trong vùng ảnh hưởng của Hán ngữ theo cách hiểu rộng hơn.
- Biến nguyên âm: -i:>-aj
- Biến đổi phương ngữ ngẫu nhiên: r->l-
- Biến đổi thông thường l (vị trí ở giữa hoặc đầu) từ Hán Thượng Cổ sang Hán Cổ [Baxter 1992]:
- Vị trí giữa trong trường hợp sesqui-syllable căng: Hán Thượng Cổ -l->Hán Cổ d-
- Vị trí đầu trong trường hợp đơn âm tiết (mono-syllable) lỏng: Hán Thượng Cổ -l->Hán Cổ j-
- Biến đổi thông thường r->l- từ Hàn Thượng Cổ sang Hán Cổ
- Mất âm tiết đầu trong các từ sesqui-syllable
Nguyên ngữ
*k.ri sản sinh ra các tộc danh sau:
2.1 Hlai
ɬai, hoặc Lai, là tộc danh của một nhóm dân Kadai (ngữ hệ Tai-Kadai), nằm ở Hải Nam (Quảng Đông). Theo Matisoff [1988: 289, chú ý 3], người đã phục nguyên các phụ âm đầu và thanh điệu của proto-Hlai, thì phụ âm đầu
ɬ- là một spirant lateral vô thanh mà quyết định các loạt thanh điệu cao. Do đó, phụ âm đầu này phải bắt nguồn từ nhóm plosive
+l. Về nguồn gốc từ nguyên,
ɬai là kết quả biến âm của
kri: qua một chuỗi biến đổi âm mà nhiều người biết tới:
kriː> kʰliː> ɬiː> ɬaj. Biến đổi âm này không cần phải được giải thích bằng việc tái mô hình thông qua Hán ngữ.
2.2 Li (
lĭ 俚, lí 黎) là một tên gọi do dân Hán đặt cho người Hlai. Việc đặt tên dân tộc này xuất hiện trong ghi chép thời Hán và thời Tống.
lĭ 俚 <HC liX <HTC *C-rjɨʔ [rɨʔ] |
lí 黎 <HC lej <HTC *C-rɨj [C.rɨ] |
2.3. Tai/Thai (hay Tày/Thày), có nguồn gốc từ proto-Tai Tây Nam
dajA (
<*daj), là tên tự xưng của nhiều nhóm dân trong nhánh Tai Tây Nam và Tai Trung Tâm. Tên tộc danh này vắng bóng trong nhánh Tai Bắc. Sự hình thành của nó có thể được giải thích bằng các thay đổi cụ thể trong tiếng Hán trên cơ sở của một quá trình thay đổi luân phiên phương ngữ sau:
kə̆liː> kə̆diː/ kə̆daj (
-l->-d- trong sesqui-syllable căng)>
di:/daj (mất âm tiết đầu)>
dajA (proto-Tai Tây Nam) sau đó âm này tiến hóa thành
tʰajA2 trong tiếng Thái/Siêm và Lào và thành
tajA2 (trong các ngôn ngữ Tai khác).
Lưu ý: Một niềm tin cắm rễ sâu sắc ở Thái Lan là tên gọi "Thái" có gốc từ âm tiết cuối cùng
-daya trong
Sukhodaya/Sukhoday (
สุโขทัย), tên gọi của vương quốc Thái đầu tiên trong lịch sử. Để nhấn mạnh nguồn gốc tên gọi cao quý này, nó được viết thành
ไทย (chuyển tự là
ai-d-y) để chỉ người Thái/Siêm, trong khi
ไท (chuyển tự
ai-d) dùng để chỉ các nhóm dân nói ngôn ngữ Tai khác. Lào viết
ໄທ (chuyển tự
ai-d) cho cả Thai lẫn Tai.
2.4. Yi, đọc là
yí 彝 hoặc
夷, là cách gọi tên dân tộc của các nhóm Tạng-Miến, có lẽ bắt nguồn từ nguyên ngữ
*k.ri: bằng sự biến âm
l-> j- (đơn âm tiết lỏng) cụ thể với Hán ngữ.
yí 夷 <HC yij [ji] <HTC *ljɨj [lɨ] |
Sự diễn dịch tộc danh 'Yi' là một thành viên trong nhóm
*k.ri vẫn chỉ là phán đoán, tuy nhiên nó không được xác minh vững vàng như với các tộc danh Hlai và Tai/Thai.
3. Nhóm Kraw
*k.raːw
Từ nguyên
*k.raːw sản sinh ra các tộc danh sau:
3.1 Gelao : tên tự xưng của một nhóm dân Kadai phân bố từ Quý Châu (Trung Quốc) đến bắc Việt Nam.
3.2 Lào: tộc danh và tên tự xưng của người Lào (ລາວ); quốc tịch của các cư dân sống tại Lào. Được hình thành bằng sự đơn âm hóa của nguyên ngữ
*k.raw. Các dân tộc được gọi là Lao (lăo 獠), được tin là tổ tiên của người Lào và một số dân tộc Tai-Kadai khác định cư ở thượng Tonkin (bắc bộ Việt Nam) và nhiều vùng của Vân Nam và Quý Châu vào thời Đường [Pelliot 1904, tr.136].
lăo 獠 <HC lawX <HTC *C-rawʔ [C.rawˀ] |
Phục nguyên này cho fonogram 獠 khẳng định rằng ‘Lào’ bắt nguồn từ nguyên ngữ
*k.raːw.
3.3 Tên Hán Việt
Giao, trong Kiao-tche/
Giao Chỉ (
jiāo zhĭ 交趾) “tên gọi cổ của Vietnam”, được chứng thực từ năm 207 TCN, sau đó với từ
Lạc (xem 1.1).
jiāo 交 <HC kæw <HTC *kraw [k.raw] |
Tên gọi
Giao Chỉ được viết thành Catti- trong sách Cattigara của Ptolemy, và Cochi- trong Cochinchina, một trong số các tên gọi dành cho Đại Việt được người Bồ Đào Nha ghi lại.
3.4 Keo/ Kæw
kɛːwᴬ¹ (
ແກວ) : một tộc danh trước kia người Lào đặt cho người Vietnam, ngày nay được dùng với nghĩa xúc phạm chút ít. Nhưng trong tiếng Pupéo (nhánh Kadai) thì
kew được dùng để gọi người Tày ở miền bắc Việt Nam. Từ nguyên này có gốc từ dạng Hán Cổ
*kraw.
4. Nhóm
*-raŋ ‘loài người, người’ có thể được nhận diện trong các tên gọi sau:
4.1 Từ Hán Việt
Văn-Lang (
wén láng 文郎), tên của một tỉnh và cư dân của nó nằm ở phía nam lãnh thổ Giao Chỉ, cũng là bắc Vietnam (thời Đường) [Maspero 1918]. Tỉnh này có lẽ nằm ở trung tâm Lào ngày nay.
láng 郎 <HC lang <HTC *C-rang [C.raŋ] |
4.2.
T’ang-ming/ Táng-míng 堂 明: theo các ghi chép thời Tam Quốc (
sānguózhì 三國誌),
T’ang-ming là một nước nằm ở bắc Cam Pu Chia. Một tác giả Trung Quốc từ TK 13 nhận diện nước
T’ang-ming này với nước
Tao-ming/ Dào míng 道明 vào thời Đường, cũng nằm ở bắc Cam Pu Chia [Hoshino 1986, tr.32].
míng 明 <HC mjæŋ <HTC *mrjang [m.raŋ] |
4.3.
Maleng: tên tự xưng của một tiểu nhóm Vietic đang bị đe dọa biến mất phân bố trên cao nguyên Nakai, nằm ở trung tâm Lào. Việc gọi tên dân tộc này có thể được nhận diện với
*m.raŋ thông qua dạng iambik muộn
*m.leŋ.
4.4.
Maleṅ/ Malyāṅ: tên này, được chứng thực trong ký tự Khmer Cổ, dùng để chỉ một nước (và các cư dân của nó) nằm ở phía nam Biển Hồ (Tonlé Sap). Tên gọi vào thời tiền Ăngko
Maleṅ, được phục nguyên là
*mə̆lɨəŋ, được chứng thực vào TK 7; tên gọi thời Ăngko
malyāṅ *mə̆lieŋ đã được chứng thực từ TK9 đến TK 11 [Jenner 2009a, 2009b]. Vương quốc
Maleṅ/ Malyāṅ bị vua Jayavarman II xâm lược vào TK 8. Chúng ta không biết chút gì về ngôn ngữ do các cư dân này nói. Tồn tại một mối liên hệ ngữ âm rõ ràng giữa ký tự
Maleṅ/ Malyāṅ và tên tộc danh Maleng ở Lào, nhưng chúng ta không thể rút ra kết luận nào từ sự so sánh này.
4.5.
Mraṁmā: ký tự Miến Điện chứng thực hai phiên bản của tên nước Miến Điện cổ là
mranmā (từ năm 1190) tên gọi mà vẫn tồn tại đến ngày nay, và
mraṁmā (1342) [Luce 1959, tr.53]. Gốc từ của từ thứ hai,
mraṁ- (ở đây ṁ có cùng giá trị ngữ âm với ṅ), được chuyển tự bằng fonogram
mù-làng 木浪 trong Hán ngữ [Luce 1958, tr.106].
làng 浪 <HC laŋ <HTC *C-rang [*C.raŋ] |
Chúng ta có thể nghĩ rằng tính hợp lệ của dạng
mraṁ(mā) là không chắc chắn, vì nó hiếm gặp hơn dạng bình thường
mran(mā), nhưng dạng chuyển tự trong Hán ngữ của nó tương đồng một cách hoàn hảo với cách đánh vần của từ này trong tiếng Miến Điện Cổ.
4.6. Orang/ Urang
*ʔuʀaŋ “loài người, người” [Dyen & McFarland 1979; Wurm & Wilson 1975]. Mặc dù từ này được gán cho proto-Austronesian bởi một số học giả, các từ ngữ bắt nguồn từ nguyên ngữ này vẫn chỉ giới hạn trong vùng nói ngôn ngữ Malayic (Melayu, Minangkabau, Madur). Thật khó mà xếp
*ʔuʀaŋ vào một trong số các hệ ngôn ngữ tại Đông Nam Á.
5. Kết Luận
Sự quan sát đầu tiên xuất hiện trong bài viết này là có tồn tại mức độ đa dạng đáng kể về ngữ âm bên trong nội bộ các nhóm tộc danh.
- Trong số 4 nguyên ngữ cơ bản, chỉ có *k.riː là hoàn toàn được lưu giữ cho đến ngày nay và tồn tại song song với các biến thể hậu thân của nó là Hlai/ Li và Tai/ Thai tức tên gọi các dân tộc Tai-Kadai (loại bỏ ra ngoài trường hợp mơ hồ của tên gọi ‘Yi’).
- Việc sử dụng các dạng hậu thân của *k.raw rất phổ biến với Tai-Kadai (Gelao, Lào) và với tổ tiên Austroasiatic của người Việt Nam.
- Nguyên ngữ *p.rak/ b.rak chủ yếu liên hệ với cư dân Austroasiatic, và sau đó là với các dân tộc Tạng-Miến. Có thể đưa ra giả thuyết là tình trạng này phản ánh sự truyền bá các ngôn ngữ Tạng-Miến vào một sub-stratum Austroasiatic
- Nguyên ngữ *-raŋ được chia sẻ giữa Châu Á đại lục và khu vực tây Indonesia. Sự tồn tại của nguyên ngữ này đã được chứng thực trong 3 hệ ngôn ngữ: Tạng-Miến, Austroasiatic và Austronesian.